Khơi thông mọi nguồn lực, hiện thực hóa khát vọng đưa tỉnh Kon Tum phát triển nhanh và bền vững
Thứ ba - 12/09/2023 14:22
Vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương; khơi thông và phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội là những việc mà Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum đang nỗ lực để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2020 - 2025), hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
Kon Tum là tỉnh miền núi, biên giới, ở phía Bắc Tây Nguyên, được thành lập lại vào tháng 8/1991 (tách ra từ tỉnh Gia Lai - Kon Tum); có vị trí địa chính trị quan trọng về quốc phòng, an ninh của vùng Tây Nguyên, thuộc khu vực Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, nằm trên hành lang kinh tế Đông Tây, là cửa ngõ giao lưu kinh tế - văn hóa, xã hội với các tỉnh của Đông Bắc Campuchia, Nam Lào, Thái Lan và Myanma qua Cửa khẩu quốc tế Bờ Y; thuận lợi kết nối liên vùng theo các Quốc lộ 14, Quốc lộ 40, Quốc lộ 24… đến các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và cả nước.
Tỉnh có đường biên giới dài 292,522 km (giáp với Lào 154,222 km, giáp với Campuchia 138,3km). Diện tích tự nhiên gần 10.000 km2; dân số khoảng 580.000 người với 43 dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 54%, có 07 dân tộc thiểu số tại chỗ (gồm: Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, Brâu, Rơ Mâm, Giẻ Triêng, Hre), trên 42% dân số theo các tôn giáo. Toàn tỉnh có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, 102 đơn vị hành chính cấp xã. Đảng bộ tỉnh có 14 đảng bộ trực thuộc với 668 tổ chức cơ sở đảng, 1.864 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở và 01 đảng bộ bộ phận với 31.315 đảng viên.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của các ban, bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Kon Tum đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị. Tỉnh ủy đã kịp thời ban hành Chương trình số 03-CTr/TU, ngày 12/01/2020 thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020-2025; Chương trình số 17-CTr/TU, ngày 14/7/2021 thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành 11 Nghị quyết chuyên đề về phát triển nông nghiệp công nghệ, lâm nghiệp, dược liệu, du lịch, cải cách hành chính, chuyển đổi số, phát triển đô thị... để tập trung lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, lĩnh vực đột phá; tiến hành đánh giá tình hình và ban hành các kết luận, nghị quyết để lãnh đạo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị định kỳ 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và hằng năm. Đồng thời, đã tập trung thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống dịch Covid-19; triển khai các chủ trương, nghị quyết của Trung ương về phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, qua đó đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Vì vậy, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực. Trong đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng các ngành nông, lâm, thủy sản. Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn tỉnh (GRDP) hằng năm tăng trưởng khá, bình quân giai đoạn 2021-2022 đạt 8%/năm. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng đều qua các năm (năm 2021 đạt 3.659 tỷ đồng, năm 2022 đạt 4.050 tỷ đồng). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 43,2 triệu đồng cuối năm 2020 lên 52.44 triệu đồng vào cuối năm 2022 (đạt 75% mục tiêu cuối nhiệm kỳ).
Nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, tổng giá trị tăng thêm của ngành Nông nghiệp đến cuối năm 2022 khoảng 5.900 tỷ đồng, tăng 24,5% so với đầu nhiệm kỳ. Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với chế biến bước đầu đạt được những kết quả nhất định, đã có sự chuyển biến từ nhỏ lẻ, manh mún sang dồn đổi, tích tụ đất, tổ chức lại sản xuất theo hình thức liên kết, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp. Đã thành lập Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Măng Đen, huyện Kon Plông; công nhận 02 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại huyện Kon Plông và huyện Đăk Hà; phê duyệt, ban hành danh mục 192 dự án kêu gọi, thu hút đầu tư, trong đó tập trung các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao quy mô lớn như: Dự án trồng, chế biến dược liệu; khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; trang trại chăn nuôi kỹ thuật cao... Đã tạo ra được các vùng chuyên canh cây nông nghiệp phục vụ cho chế biến với 29.254ha cà phê; 77.491,9ha cao su; 1.749,6ha sâm Ngọc Linh; hơn 5.119,6ha cây dược liệu khác; khoảng 2.362,7ha cây mắc ca; khoảng 9.423,2ha cây ăn quả…
Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo hướng bền vững đạt một số kết quả tích cực. Giai đoạn 2021-2022 đã trồng được hơn 10.000ha rừng và 2,3 triệu cây phân tán. Xây dựng nông thôn mới được chú trọng, đến tháng 4/2023, có 42 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, tăng 19 xã so với đầu nhiệm kỳ.
Công nghiệp tiếp tục phát triển, giá trị tăng thêm của ngành Công nghiệp - Xây dựng năm 2022 đạt 9.361 tỷ đồng, tăng 45,3% so với đầu nhiệm kỳ. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng tăng mạnh như: Điện sản xuất ước đạt 3.300 triệu Kwh, tăng 68,94% so với cùng kỳ năm trước; gỗ cưa hoặc xẻ đạt 42.500m3, tăng 21,45% so với cùng kỳ năm trước... Công nghiệp chế biến có bước phát triển với sự tham gia từ nhiều loại hình kinh tế. Tiềm năng, thế mạnh về năng lượng tái tạo, năng lượng sạch được khai thác và phát huy hiệu quả, đã có 28 dự án thủy điện đã hoàn thành có tổng công suất 329,4 MW, tiềm năng phát triển điện gió khoảng 6.058 MW, điện mặt trời khoảng 11.141,7 MW. Có 08 cụm công nghiệp đang hoạt động với tổng diện tích là 303,7 ha; tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt 67%, trong đó đã thu hút được 41 doanh nghiệp, 426 cơ sở sản xuất đầu tư vào cụm công nghiệp, tạo việc làm được hơn 2.400 lao động.
Thương mại, dịch vụ được phục hồi và phát triển nhanh ngay sau khi tình hình dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát; giá trị tăng thêm của ngành Thương mại, dịch vụ năm 2022 đạt 12.593 tỷ đồng, tăng 17,1% so với đầu nhiệm kỳ. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đến cuối năm 2022 đạt 320,8 triệu USD, tăng 12,3% so với đầu nhiệm kỳ. Tỉnh đã tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, thu hút đầu tư hạ tầng du lịch và một số khu, tuyến, điểm du lịch được đầu tư và đưa vào khai thác, nhất là Khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen. Tổng lượng khách du lịch đến tỉnh Kon Tum năm 2022 khoảng 1.1067.750 lượt khách, tăng hơn gấp hơn 4,4 lần so với đầu nhiệm kỳ; tổng doanh thu ước đạt 265 tỷ đồng, gấp hơn 22 lần so với đầu nhiệm kỳ.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đẩy mạnh đầu tư xây dựng, nhất là tại hai vùng kinh tế động lực của tỉnh là thành phố Kon Tum và huyện Kon Plông. Đã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là xây dựng Quy hoạch tỉnh Kon Tum thời kỳ 2021-2030, Quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch Măng Đen, huyện Kon Plông để đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời gian tới. Đồng thời đẩy mạnh quy hoạch chung toàn bộ các đô thị trên địa bàn tỉnh với tổng diện tích đất đô thị được công nhận và phân loại đạt 69.026ha. Đến nay tỷ lệ đô thị hóa đạt 38,26%, hệ thống đô thị cơ bản đảm bảo chất lượng phù hợp với loại đô thị và cấp quản lý hành chính đô thị. Đầu năm 2023, thành phố Kon Tum được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II.
Tỉnh ủy đã ban hành và lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 16-5-2022 về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh; qua đó, công tác xúc tiến và thu hút đầu tư đạt kết quả tích cực, lãnh đạo tỉnh đã chủ động tiếp xúc, kêu gọi, theo dõi, làm việc với nhà đầu tư để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ đầu tư trên địa bàn tỉnh. Theo Báo cáo xếp hạng chỉ số PCI năm 2022 do VCCI công bố ngày 11/4/2023, tỉnh Kon Tum đạt 64,89 điểm, tăng 24 bậc so với năm 2021, xếp thứ 37/63 tỉnh, thành phố trên cả nước, đứng thứ 02 khu vực Tây Nguyên. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cơ bản duy trì ổn định và mở rộng; từ đầu nhiệm kỳ đến nay có 630 doanh nghiệp được thành lập mới, tổng vốn điều lệ khoảng 13.100 tỷ đồng; đã thu hút 68 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 18.237 tỷ đồng. Cải cách hành chính đạt một số kết quả quan trọng; đến nay, tỷ lệ cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 đạt 71,31%; tỷ lệ dịch vụ công được cung cấp, tích hợp trên Cổng dịch vụ công quốc gia đạt 57,82%
Lĩnh vực về văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh từng bước được nâng lên. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay đã đào tạo nghề cho 3.119 học viên và giải quyết việc làm cho hơn 13.500 lao động. Hệ thống trường, lớp học tiếp tục được củng cố, mở rộng; đến cuối năm 2022 có 189 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2021 là 98,33%; năm 2022 là 97,69%; trong đó, học sinh dân tộc thiểu số đạt 94,89%, trong đó học sinh dân tộc thiểu số học hệ giáo dục phổ thông là 97,69%, học sinh dân tộc thiểu số hệ giáo dục thường xuyên là 70,06%.
Đã thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19, đảm bảo thích ứng an toàn, linh hoạt và kịp thời theo đúng quy định của Trung ương, đến nay chưa ghi nhận trường hợp tử vong do mắc bệnh COVID-19. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao, chú trọng đến sự hài lòng của người bệnh, đảm bảo an toàn cho người dân.
Tỷ lệ hộ nghèo hằng năm đều giảm từ 4% trở lên, cuối năm 2022 giảm còn 10,68%, đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra là giảm từ 3-4%/năm. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội đảm bảo.
Giá trị bản sắc văn hóa, truyền thống các dân tộc thiểu số, các di tích cách mạng được khôi phục, bảo tồn và phát huy. Hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ đã giải quyết những vấn đề cơ bản cho nhu cầu nghiên cứu về dược liệu, sâm Ngọc Linh, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững, ổn định. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được đảm bảo. Công tác đấu tranh ngăn chặn, xử lý các loại tội phạm được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện đầy đủ, đúng theo quy định, tỷ lệ giải quyết các vụ việc được nâng lên. Hoạt động đối ngoại tiếp tục được tăng cường, đã chủ động nắm bắt các định hướng, tham gia các diễn đàn, hội nghị để tăng cường hợp tác quốc tế. Đã triển khai ký kết các bản ghi nhớ hợp tác giữa tỉnh Kon Tum với một số tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Campuchia trong giai đoạn mới.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng, năng lực lãnh đạo của cấp ủy các cấp, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền địa phương được nâng lên. Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh đã thực hiện nghiêm Quy chế làm việc và các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Đã tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng đảm bảo chất lượng, tiến độ theo yêu cầu của Trung ương. Chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến, "tự chuyển hóa", gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Qua đó, chất lượng giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên tiếp tục được nâng lên; thực hiện tốt công tác nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Công tác phát triển đảng viên mới tiếp tục được chú trọng về chất lượng; từ đầu đầu nhiệm kỳ đến nay đã kết nạp được 2.126 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn đảng bộ lên 31.315 đồng chí. Công tác cán bộ, nhất là quy hoạch, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình, quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng được cấp ủy các cấp quan tâm triển khai thực hiện. Việc thi hành kỷ luật đối với đảng viên đảm bảo nghiêm minh, đúng nguyên tắc, thẩm quyền; có tính giáo dục, răn đe, giúp cho đảng viên ý thức trong việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Công tác dân vận của cả hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến tích cực với phương châm hướng mạnh về cơ sở. Lãnh đạo thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là việc thực hiện dân chủ trong công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định canh, tái định cư khi triển khai dự án đầu tư; công tác tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân. Tăng cường vận động, tập hợp quần chúng vào các tổ chức đoàn, hội, tỷ lệ tập hợp đoàn viên, hội viên đạt 81%.
Để hiện thực hóa khát vọng đưa tỉnh Kon Tum phát triển nhanh và bền vững trong thời gian đến, bên cạnh thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XVI Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy cũng đã ban hành Chương trình số 50-CTr/TU, ngày 09-01-2023 thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 06-10-2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” với tầm nhìn và mục tiêu dài hạn, giải pháp đột phá cùng quyết tâm cao nhằm đáp ứng kỳ vọng của Nhân dân và của Trung ương đối với vùng Tây Nguyên nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng.
Trong đó, xác định mục tiêu xây dựng tỉnh Kon Tum ổn định, phát triển toàn diện, bền vững; trở thành cực phát triển quan trọng của vùng Tây Nguyên với đa ngành nghề, đa lĩnh vực; chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp; quản lý, bảo vệ, nâng cao chất lượng rừng gắn với sinh kế của người dân; tăng cường thu hút công nghiệp chế biến; phát huy tiềm năng, lợi thế về du lịch; đẩy mạnh phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới; lấy đầu tư nâng cấp, mở rộng kết cấu hạ tầng giao thông làm động lực để đẩy nhanh kết nối với các trung tâm kinh tế lớn, tăng cường liên kết vùng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; tăng cường hội nhập và phát triển; bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt trên 10%/năm; giai đoạn 2026 - 2030 đạt trên 9,5%/năm. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ. GRDP bình quân đầu người đạt trên 110 triệu đồng/người; thu ngân sách nhà nước đạt trên 7.800 tỷ đồng; tỷ lệ đô thị hoá đạt khoảng 50-52%; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới khoảng 90%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt 6,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3-4%/năm. Đến năm 2030, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt khoảng trên 60%; trên 65% cơ sở giáo dục Trung học cơ sở và Trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; đạt 40 giường bệnh và 12 bác sĩ trên một vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 100%. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 64%; tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư đô thị đạt 96%, ở nông thôn đạt 99%.
Tầm nhìn đến năm 2045: Tỉnh Kon Tum trở thành cực phát triển quan trọng của vùng Tây Nguyên và hành lang kinh tế Đông - Tây với các nước Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS), là điểm kết nối quan trọng trong ngã tư kinh tế Bắc - Nam, Đông - Tây với hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại; là tỉnh có nền kinh tế phát triển, đáp ứng yêu cầu cao về an sinh xã hội; sử dụng hiệu quả tài nguyên và các nguồn lực tăng trưởng; có không gian sản xuất và sinh hoạt xã hội với định hướng xanh, thích nghi với biến đổi khí hậu; môi trường đầu tư năng động, chỉ số cạnh tranh đạt chuẩn quốc gia và khu vực.
Để đạt được mục tiêu trên, thời gian đến, Đảng bộ tỉnh Kon Tum xác định tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các nhà đầu tư. Phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường, vươn lên mạnh mẽ bằng sức mạnh nội sinh, không trông chờ, ỷ lại. Giữ vững bản lĩnh, kiên định, kiên trì những vấn đề nguyên tắc, nhưng chủ động, tích cực, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phù hợp tình hình thực tế; trong đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, cụ thể sau:
Về kinh tế: Tập trung huy động nguồn lực, tạo đột phá trong thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, nhất là các dự án về phát triển đô thị - thương mại - dịch vụ có sức lan tỏa lớn tại các vùng kinh tế động lực của tỉnh (thành phố Kon Tum và huyện Kon Plông). Đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư và tập trung nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các dự án trọng điểm của tỉnh; khắc phục các hạn chế để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp thu ngân sách gắn với cơ cấu, sắp xếp lại nhiệm vụ chi cho phù hợp, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý về tài nguyên đất đai, khoáng sản và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công. Tổ chức triển khai thực hiện tốt các quy hoạch, kế hoạch, nhất là Quy hoạch tỉnh Kon Tum thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các đồ án quy hoạch khác để thực hiện công tác thu hút đầu tư.
Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tiên tiến, hiện đại, công nghệ xanh, thân thiện với môi trường. Đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, phát triển trang trại theo hướng chú trọng tổ chức sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết trọng tâm của Tỉnh ủy về phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản. Tập trung thu hút đầu tư các cơ sở sơ chế, sản xuất, chế biến sâu các sản phẩm từ dược liệu, phấn đấu phát triển vùng dược liệu tỉnh Kon Tum thành vùng dược liệu trọng điểm quốc gia và trở thành trung tâm sản xuất dược liệu lớn của cả nước vào năm 2025. Đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản, dược liệu, công nghiệp cơ khí phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn; phát triển các dự án thủy điện, điện gió, điện mặt trời theo đúng quy hoạch. Phát triển kinh tế cửa khẩu, các khu, cụm công nghiệp, các làng nghề truyền thống, tạo điều kiện thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn. Tăng cường liên kết, phát triển du lịch, trọng tâm là du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, tâm linh, du lịch cộng đồng trên cơ sở bảo tồn, phát huy giá trị của các di tích lịch sử, bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số để tạo ra các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2025 xây dựng Khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen, huyện Kon Plông cơ bản đáp ứng các tiêu chí của Khu du lịch cấp quốc gia.
Về văn hóa - xã hội: Thực hiện có hiệu quả các Đề án của tỉnh về nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, từng bước kiện toàn mạng lưới trường, lớp, quy mô học sinh, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số. Nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh; chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, nhất là chất lượng dịch vụ y tế ở tất cả các tuyến, mở rộng hoạt động khám chữa bệnh từ xa. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội và đối với người có công. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo. Trong đó, tập trung triển khai các chương trình, dự án để giải quyết việc làm ổn định cho người lao động, nhất là người đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách dân tộc, nhất là hỗ trợ định canh, định cư, đất ở, đất sản xuất, nhà ở đối với dân tộc thiểu số và hộ nghèo. Tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng bền vững, ưu tiên địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp tục đầu tư đồng bộ gắn với sử dụng có hiệu quả các thiết chế văn hóa từ tỉnh đến cơ sở; khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, các di tích lịch sử cách mạng gắn với phát huy các tuyến, điểm du lịch.
Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Tiếp tục lãnh đạo triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh và giữ gìn trật tự xã hội trên địa bàn. Nâng cao chất lượng công tác dự báo, thường xuyên bám địa bàn, nắm tình hình, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tốt các vấn đề về an ninh chính trị, trật tự xã hội ngay từ cơ sở. Thường xuyên truy quét, trấn áp, xử lý các loại tội phạm và vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm về quản lý, bảo vệ rừng, ma túy, băng nhóm, tín dụng đen. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật những vụ việc khiếu nại, tố cáo ngay từ khi phát sinh, nhất là những vụ khiếu kiện đông người liên quan đến đất đai, tài nguyên, môi trường. Nâng cao trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, không để xảy ra khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp. Tăng cường quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại. Đa dạng hóa hoạt động thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh địa phương, tiềm năng, tăng cường thu hút đầu tư và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Phối hợp chặt chẽ với các tỉnh giáp biên của Lào và Campuchia trong công tác bảo vệ an ninh biên giới.
Về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị: Tiếp tục triển khai kịp thời, chất lượng công tác tuyên truyền, nghiên cứu, quán triệt, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt công tác cán bộ, đảm bảo đội ngũ lãnh đạo ngang tầm nhiệm vụ, cơ cấu hợp lý và có tính kế thừa. Chú trọng công tác phát triển đảng viên, nhất là đảng viên trong vùng đồng bào có tôn giáo theo quy định. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hằng năm, đảm bảo sát với tình hình thực tế tại địa phương theo phương châm "giám sát phải mở rộng", "kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm". Tập trung kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng; các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm, dư luận xã hội quan tâm; cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hoá; vi phạm những điều đảng viên không được làm, vi phạm trách nhiệm nêu gương; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện kiên quyết và đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, gắn với phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của tỉnh. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp trên địa bàn tỉnh.
Tác giả bài viết: Dương Văn Trang
Nguồn tin: www.tapchicongsan.org.vn/